Hạt thì là Ai Cập được sử dụng làm gia vị do hương vị đặc trưng của nó, rất phổ biến trong ẩm thực Bắc Phi, Trung Đông, tây Trung Quốc, Ấn Độ và Mexico.
Quả thì là Ai Cập có vị đắng đặc trưng và hương mạnh và ấm do chứa nhiều tinh dầu. Thành phần hợp chất thơm chính và quan trọng là cuminalđehyt (4-isopropylbenzalđehyt). Các hợp chất thơm quan trọng trong hạt thì là Ai Cập nướng là các pyrazin thay thế, 2-ethoxy-3-isopropylpyrazin, 2-methoxy-3-sec-butylpyrazin và 2-methoxy-3-methylpyrazin.
Ngày nay, thì là Ai Cập được đồng nhất hóa với ẩm thực Ấn Độ và ẩm thực Mexico. Nó được sử dụng như là một thành phần trong bột ca ri. Thì là Ai Cập cũng được tìm thấy trong một số phó mát Hà Lan như phó mát Leyden, và trong một số loại bánh mì truyền thống ở Pháp. Trong y học cổ truyền, thì là Ai Cập được phân loại như là chất kích thích, chất gây trung tiện và kháng trùng.
Bột thì là Ai Cập cũng có thể dùng để nêm nhiều món ăn, do nó làm giảm độ ngọt tự nhiên của các món ăn này. Thông thường nó hay được thêm vào các món ca ri, enchilada, taco, và các món ăn kiểu Trung Đông, Ấn Độ, Cuba và Mexico khác. Nó cũng có thể thêm vào salsa để tạo thêm hương vị cho món nước chấm này. Thì là Ai Cập cũng được dùng với một số món thịt để bổ sung thêm cùng với các đồ nêm khác. Gia vị này tạo ra hương vị cơ bản của các món ăn Tex-Mex (Texas/Mexico) và là gia vị chung trong các món ăn của tiểu lục địa Ấn Độ. Thì là Ai Cập cũng được sử dụng nhiều trong các món ăn của người La Mã cổ đại.
Hương vị của thì là Ai Cập cũng đóng vai trò lớn trong ẩm thực Mexico, Thái Lan, Việt Nam và Ấn Độ. Bột thì là Ai Cập là thành phần quan trọng trong bột ớt, cũng như được trộn lẫn với bột điều nhuộm, adobo, garam masala, bột ca ri và baharat.